Nguồn gốc gây ô nhiễm nước có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo:
Nguồn gốc gây ô nhiễm nước có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo:
Việt Nam là quốc gia đang phát triển. Đất nước chúng ta đang đứng trước mối lo ngại vì chất lượng nước giảm. Trong khi tốc độ ô nhiễm nước tăng nhanh thì những chính sách, kế hoạch ngăn ngừa, cải tạo chất lượng nước chưa có.
Thứ nhất, ở các khu đô thị nước ta, dù đã có những chính sách, chế tài bảo vệ nguồn nước nhưng tốc độ ô nhiễm vẫn không giảm. Khi các thành phố lớn quy tụ hàng trăm, hàng nghìn cơ sở sản xuất với lượng chất thải tăng cao mỗi năm. Đơn cử như khu công nghiệp Tham Lương, nguồn nước nhiễm bẩn ước tính 500.000m3/ngày. Khu vực này tập trung khá nhiều các cơ sở sản xuất thuốc nhuộm, dệt, giá, bột giặt…
Hà Nội có tới 400.000m3 nước thải xả ra môi trường mỗi ngày. Trong số đó, vỏn vẹn khoảng 10% nước thải đã qua công đoạn xử lý trước đó. Lượng nước đổ thải trực tiếp đổ ra những con sông lớn như Tô Lịch, sông Đà, sông Nhuệ...Thời gian trước đây, truyền thông nhắc nhiều về vụ ô nhiễm con sông Tô Lịch. Từ nước xanh đã chuyến sang đục ngầu, đen sì. Hôi thối bốc lên khiến người dân địa phương cũng như du khách không dám tới đây tham quan.
Thứ hai, 76% dân số nước ta sinh sống tại những vùng nông thôn. Đây chính là khu vực nhạy cảm. Ở nông thôn, cơ sở hạ tầng, công nghệ xử lý chất thải con hạn chế. Nước sinh hoạt, chất thải rắn, chất thải từ động thực vật trực tiếp đổ ra kênh, rạch. Chúng nhanh chống thẩm thấu và rửa trôi gây ô nhiễm nguồn nước. Đây cũng là nguyên nhân lớn dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam hiện nay.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông báo cáo rằng: số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500-3.500MPN/100ml (kiểm tra trên sông Tiền và sông Hậu) lên tới 3800-12.500MPN/100ML ở các kênh tưới tiêu. Tình trạng này bắt nguồn từ việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Những ví dụ trên mới chỉ phơi bày một phần của sự thật mà thôi. Để biết rằng, tác động tiêu cực của con người gây ra những hậu quả hết sức nặng nề. Cụ thể, số liệu của Bộ Y tế trích dẫn ra: "Trung bình mỗi năm có đến 9000 người chết do sử dụng nguồn nước bẩn, 200.000 người mắc ung thư".
Quản lý yếu kém các quy trình xử lý và đổ chất thải rắn công nghiệp và thành phố dẫn đến ô nhiễm môi trường. Mặc dù không thể tránh khỏi những loại chất thải như vậy vì nó là kết quả của các hoạt động cơ bản của con người, nhưng mỗi quốc gia đều đặt ra các quy tắc và quy định để quản lý thích hợp chất thải này. Tuy nhiên, thiếu vốn, tham nhũng hoặc hệ thống kém hiệu quả thường dẫn đến các bãi thải không được quản lý, là những mối đe dọa tiềm tàng đối với sức khỏe con người và môi trường.
Công nghiệp khai thác vàng thủ công là một ngành công nghiệp tự cung tự cấp thường do một cá nhân điều hành với quy mô nhỏ. Các ngành công nghiệp như vậy thiếu vốn để sử dụng công nghệ hiện đại trong việc khai thác vàng từ quặng của nó. Do đó, các phương pháp thô sơ được sử dụng trong quá trình này dẫn đến việc tạo ra các chất thải độc hại như thủy ngân được thải ra môi trường một cách vô trách nhiệm. Các ngành công nghiệp khai thác vàng thủ công phát triển mạnh ở các nước có nền kinh tế kém mạnh mẽ và luật pháp ít nghiêm ngặt hơn đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ như các nước châu Phi và Mỹ Latinh. Công việc kinh doanh sinh lợi này sử dụng khoảng 10 đến 15 thợ mỏ ở 55 quốc gia trên thế giới. Mặc dù ngành công nghiệp này chỉ chiếm 20% sản lượng vàng toàn cầu, nhưng nó là nguyên nhân duy nhất gây ô nhiễm thủy ngân trên thế giới.
Một số lượng lớn các ngành công nghiệp phụ thuộc vào công nghiệp khai thác và chế biến quặng để cung cấp khoáng sản, kim loại và đá quý. Những sản phẩm này xuất hiện trong tự nhiên ở dạng quặng trong đá và phải được khai thác và cô đặc trước khi sử dụng. Quá trình như vậy dẫn đến việc sản sinh ra một khối lượng lớn chất thải thường chứa các chất ô nhiễm như thủy ngân, chì, cadmium, … Với sự phát triển của công nghệ mới, ô nhiễm phát sinh từ ngành công nghiệp này đã được hạn chế ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên, không phải công ty khai thác và chế biến quặng nào cũng áp dụng công nghệ sạch. Các hoạt động thiếu trách nhiệm thường dẫn đến việc ô nhiễm môi trường với chất thải công nghiệp. Khoảng 7 triệu người đang bị đe dọa bởi ngành công nghiệp này trên toàn thế giới.
Ngành công nghệ, nông nghiệp càng phát triển kéo theo loạt hệ lụy đi kèm. Ô nhiễm môi trường nước là một trong nhóm những hệ lụy đó. Châu Á hiện tại có mức độ ô nhiễm môi trường cao nhất thế giới. Tình trạng chất độc trong nước ở châu Á cao gấp 3 làn những khu vực khác trên thế giới.
Thống kê của United Nations Environment Programme (UNEP) chỉ ra có tới 60% nguồn nước trên các dòng sông của 3 châu lục Á, Phi, Âu bị ô nhiễm. Theo Unicef, 5 quốc gia có nguồn nước ô nhiễm nặng nhất: Indonesia, Thái Lan, Philippines, Trung Quốc và Việt Nam. Tại Bangladesh gần 1,2 triệu dân phải sử dụng nguồn nước ô nhiễm khi chỉ có 15% là nước sạch đạt chuẩn. Ở Ireland, có khoảng 30% các con sông bị ô nhiễm trong khi tần suất sử dụng chúng ngày càng cao.
Đáng nói hơn, những con số trên chỉ thống kê đối với lượng nước bề mặt. Đồng nghĩa với việc mức độ ô nhiễm của các nguồn nước ngầm trở nên nan giải bao gờ hết. Một thống kê đáng chú ý khác của UNEP: "Có tới 60% các nguồn nước sông thuốc châu Á, châu Phi, châu Âu đang bị ô nhiễm nặng nề". Unicef lại tiếp tục công bố rằng: Indonesia, Thái Lan, Philippines, Trung Quốc và Việt Nam là 5 quốc gia có nguồn nước ô nhiễm nặng nhất ở thời điểm hiện tại.
Mỹ là nước phát triển. Song, Mỹ không nằm ngoài nguy cơ môi trường nước bị ô nhiễm nặng nề. Theo thống kê chính thức từ nguồn uy tín, 40% các con sông tại Hoa Kỳ đang bị ô nhiễm đáng báo động. 46% nước hồ ở đây thủy sinh không thể tồn tại được.
Quay về khi vực châu Á. Đây chính là tiêu điểm của vấn nạn ô nhiễm nguồn nước. Tính riêng hàm lượng chì trong nước sông ở châu Á đã hơn 20% so với các khu vực khác trên thế giới. Ngoài chì ra, chỉ số an toàn nước sinh hoạt vượt ngưỡng. Số lượng vi sinh vật trong những con sông cở châu Á cao gấp 3 lần so với số lượng trung bình trên thế giới.
Theo Pure Earth, ngành công nghiệp xử lý ULAB là một trong 10 ngành gây ô nhiễm nhất thế giới. Ắc quy axit-chì được sử dụng cho một số mục đích với mục đích sử dụng phổ biến nhất là làm ắc quy ô tô trên xe. Mặc dù loại pin này có thể sạc lại được nhưng sau một thời gian nhất định, loại pin này sẽ mất khả năng giữ điện. Pin không sử dụng được phân loại là chất thải nguy hại và đưa vào ngành công nghiệp tái chế, nơi mọi bộ phận đều được tận dụng. Trong hầu hết các trường hợp, các ngành công nghiệp không duy trì các tiêu chuẩn an toàn bắt buộc và công nhân thường sử dụng các phương pháp thô sơ để xử lý chất thải độc hại. Một số bước tái chế của ULAB được thực hiện trong môi trường không được bảo vệ dẫn đến chất thải độc hại làm ô nhiễm không khí và nước gần đó. Theo Pure Earth,
Ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm đã phát triển nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây. Sự tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia đã thúc đẩy sự gia tăng chủ nghĩa tiêu dùng trong dân số của các quốc gia đó, do đó đã kích thích nhu cầu về hàng tiêu dùng. Vì vậy, các nhà máy sản xuất sản phẩm mọc lên khắp nơi. Thông thường, các ngành công nghiệp như vậy không đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn môi trường và việc thiếu giám sát nghiêm ngặt cho phép các ngành công nghiệp đó phát triển mạnh. Sản xuất sản phẩm liên quan đến việc sử dụng nhiều hóa chất và nước thải từ các đơn vị sản xuất thường chứa các chất ô nhiễm như crom, chì, xyanua, thủy ngân, cadmium, v.v., gây ô nhiễm môi trường xung quanh các đơn vị đó.